Những năm gần đây, tình hình tội phạm diễn ra ngày một phổ biến và tinh vi hơn. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp Tòa án đều áp dụng các khung hình phạt như nhau mà còn phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ TNHS và tăng nặng TNHS.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Vậy thế nào là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Khái niệm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự
Tình tiết là những sự kiện, dữ liệu. tình huống, diễn biến, hành vi…. Của một người trong suốt quá trình thực hiện hành vi.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là những dấu hiệu mang tính chủ quan và khách quan của hành vi phạm tội. Không phải là dấu hiệu định tội hoặc định khung được quy định trong bộ luật hình sự và khi tồn tại, chúng làm giảm tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện và của người phạm tội.
Các quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Những tình tiết sau đây được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS. (Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 2015).
– Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
+ Người phạm tội có ý thức tự mình làm giảm bớt sự nguy hiểm của tội phạm; Có ý thức ngăn chặn trong quá trình thực hiện tội phạm;
+ Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào thái độ của người phạm tội. Tự mình hay có sự tác động, bắt buộc của người khác…. Đồng thời, kết quả thực tế là tác hại của tội phạm đã được ngăn chặn, được làm giảm bớt…
– Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
+ Đây là trường hợp người phạm tội đã gây ra thiệt hại, gây ra hậu quả.
+ Người phạm tội phải tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Cũng được coi là tự nguyện nếu do người khác tác động (khuyên bảo) hay theo yêu cầu của người bị thiệt hại mà người phạm tội sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả.
+ Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào tính tự nguyện; Hiệu quả của việc sửa chữa, khắc phục hậu quả; Mức độ bồi thường thiệt hại…
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
+ Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. (Theo quy định tại Điều 22 BLHS 2015 )
+ Khi thực hiện hành vi phòng vệ nếu có biểu hiện chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì phải chịu TNHS theo quy định. Tuy nhiên, đây cũng là căn cứ giảm nhẹ TNHS.
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
Theo quy định tại Điều 23 BLHS 2015 “Tình thế cấp thiết đòi hỏi có các dấu hiệu sau:
+ phải có sự nguy hiểm đang đe dọa gây thiệt hại ngay tức khắc;
+ Phải là nguy hiểm thực tế;
+ Thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại muốn tránh;
Đây là trường hợp vượt quá giới hạn của tình thế cấp thiết nhưng được giảm nhẹ TNHS. Mức độ giảm nhẹ TNHS của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ thiệt hại mà người phạm tội đã gây ra cho người thứ ba.
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
+ Trong trường hợp vì bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải dùng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm theo quy định tại Điều 24 BLHS 2015 2015;
+ Nếu khi thực hiện việc bắt giữ đã sử dụng vũ lực vượt quá mức cần thiết gây thiệt hại thì phải chịu TNHS. Động cơ gây thiệt hại ở đây là động cơ tích cực muốn bắt giữ người phạm tội. Do đó, trường hợp gây thiệt hại do vượt quá mức cần thiết này được giảm nhẹ TNHS.
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
+ Người phạm tội không làm chủ được hành vi do nạn nhân đã có hành vi trái pháp luật trước đó. Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mức độ bị kích động của người phạm tội.
+ Người phạm tội chỉ được giảm nhẹ trong trường hợp sự kích động của họ do chính nạn nhân tạo ra. Trường hợp do người khác gây ra thì không được giảm nhẹ TNHS.
– Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
+ Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn này có thể do thiên tai, địch hoạ,…. (Có thể do người khác gây ra). Người phạm tội không tự mình vượt qua được và đã chọn thực hiện hành vi phạm tội.
+ Chỉ áp dụng tình tiết này khi có đấy đủ hai điều kiện:
“phải do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà phạm tội”;
“Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không phải do người phạm tội tự gây ra”
+ Mức độ giảm nhẹ TNHS phụ thuộc vào mức độ khó khăn của hoàn cảnh và khả năng cố gắng tìm cách khắc phục những khó khăn đó của người phạm tội trước khi họ thực hiện hành vi phạm tội.
– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
Người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội chưa gây ra thiệt hại gì, hoặc đã gây ra thiệt hại nhưng thiệt hại gây ra không lớn. Hậu quả cho thấy tính nguy hiểm cho xã hội không cao nên được xem là tình tiết giảm nhẹ TNHS
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
+ Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS nay bị truy cứu TNHS trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu.
+ Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.
+ Để trở thành tình tiết giảm nhẹ phải đáp ứng cả 2 yếu tố “lần đầu” và “ít nghiêm trọng”. Mức độ giảm nhẹ phục thuộc vào mức độ ít nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
+ Bị người khác đe doạ là bị người khác dọa trừng phạt nếu làm trái ý họ, tạo cho người phạm tội nỗi lo sợ về một tai hoạ có thể xảy ra, và để tránh tai hoạ đó người phạm tội đã phải thực hiện tội phạm.
+ Bị người khác cưỡng bức là bị người khác dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác buộc người phạm tội đã phải thực hiện tội phạm.
+ Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào tính chất, mức độ thủ đoạn đe doạ, cưỡng bức của người khác và hoàn cảnh, điều kiện tránh mối đe doạ, cưỡng bức đó.
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
Người phạm tội bị hạn chế khả năng nhận thức do nguyên nhân khách. Vì vậy, trường hợp phạm tội khi hạn chế khả năng nhận thức không phải do lỗi của mình sẽ được giảm nhẹ TNHS. Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào mức độ bị hạn chế do yếu tố khách quan mang lại.
– Phạm tội do lạc hậu;
Trường hợp này, do sự hạn chế về mặt nhận thức do trình độ lạc hậu, thấp kém, đi chậm so với tiến trình phát triển chung của xã hội.
– Người phạm tội là phụ nữ có thai được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
+ Phụ nữ đang mang thai có sự thay đổi về mặt tâm sinh lý;
+ Chính sách nhân đạo của nhà nước ta đối với người phụ nữ mang thai và trẻ em.
– Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
+ Người già được xác định là người từ 70 tuổi trở lên. (Tiểu mục 2.4 mục 2 Nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP).
+ Chính sách khoan hồng đối với những đối tượng đặc biệt như phụ nữa mang thai, trẻ em…
+ Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng sức khoẻ và tội phạm đã thực hiện.
– Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
Chính sách nhân đạo của Nhà nước cho người khuyết tật khi họ phạm tội.
– Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
+ Chỉ áp dụng tình tiết này khi có đầy đủ cả hai điều kiện “người phạm tội phải có bệnh” và “bệnh đó là nguyên nhân là nguyên nhân làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội”
+ Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào tình trạng bệnh tật, mức độ hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội.
– Người phạm tội tự thú giảm nhẹ trách nhiệm hính sự:
+ Tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa bị ai phát. Tự nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện.
+ Có sự hối ăn năn, hối lỗi sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
+ Quy định là tình tiết giảm nhẹ thể hiện tính giáo dụng, răn đe.
– Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
+ Khai đầy đủ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội.
+ Người phạm tội thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm về tội lỗi của mình
– Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
Người phạm tội có thái độ chủ động, giúp đỡ trong việc phát hiện và điều tra tội phạm.
+ Cung cấp những thông tin, tài liệu, bằng chứng có ý nghĩa thiết thực;
+ Chủ động, mức độ tích cực giúp đỡ. Giá trị của những thông tin, tài liệu, bằng chứng mà người phạm tội đã cung cấp. Hiệu quả của những hành vi giúp đỡ của người phạm tội.
– Người phạm tội đã lập công chuộc tội được giảm nhẹ trách nhiệm hính sự:
“Đã lập công chuộc tội” là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm cho đến trước khi bị xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), người phạm tội không những ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm do họ thực hiện, mà họ còn có những hành động giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn các tội phạm khác, tham gia phát hiện tội phạm, bắt kẻ phạm tội, có hành động thể hiện sự quên mình vì lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích chính đáng của người khác… được cơ quan có thẩm quyền khen thưởng hoặc chứng nhận. Được ghi nhận trong NQ 01/2000 NQ – HĐTP
– Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
Người được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng khen,…quy định tại NQ 01/2000 NQ – HĐTP.
– Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
+ Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột của người phạm tội là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước.
+ Người phạm tội là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
+ Là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
Ngoài ra, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp và hoàn cảnh cụ thể có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nhưng phải ghi rõ trong bản án.
Chú ý:
Các tình tiết giảm nhẹ đã được BLHS 2015 quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt (khoản 3 Điều 46 BLHS 2015).
Trên đây là những tư vấn của Luật sư Bến Cát về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được đội ngũ Luật sư giỏi tư vấn kịp thời.